Với sự ra đời của Luật Bảo vệ và Phát triển rừng năm 2004, Lâm nghiệp cộng đồng (LNCĐ) đã chính thức trở thành một phần quan trọng trong chính sách lâm nghiệp và quản lý lâm nghiệp ở Việt Nam. Tuy nhiên, cho tới nay mới chỉ không quá 2% trong tổng diện tích rừng được chính thức giao cho cộng đồng quản lý.
Bài viết này sẽ chỉ ra rằng LNCĐ là một giải pháp khả thi cho lâm nghiệp trong tương lai. LNCĐ có ưu thế trong việc giải quyết các vấn đề về quản trị cũng như xã hội liên quan đến các cộng đồng địa phương sống quanh và trong rừng.
Mặc dù tới năm 2004, khung pháp luật Việt Nam mới thừa nhận LNCĐ là một hình thức quản lý rừng (Luật BVPTR 2004), các cộng đồng địa phương đã quản lý các diện tích rừng của họ cho mục đích kinh tế và sinh thái hàng nhiều thế kỷ qua. Kết quả nghiên cứu do Cục Lâm nghiệp (nay là Tổng Cục Lâm nghiệp – TCLN) thực hiện vào năm 2008 cho thấy hiện có khoảng 245.030 ha đất rừng do cộng đồng quản lý truyền thống. Ngoài ra, còn có một số bằng chứng khác về sự hiện diện của LNCĐ truyền thống ở một số vùng xa xôi hẻo lánh. Các bằng chứng này cho thấy đã có sự thừa nhận về quyền của các thôn bản trong việc sử dụng các lâm sản thu được từ các khu rừng gần nơi ở của họ (Hộp 1). Người ngoài muốn được sử dụng tài nguyên rừng của các cộng đồng ngày cần phải được sự cho phép của họ. Ở nhiều thôn, người khai phá rừng đầu tiên để trồng cây được coi là có quyền ‘sở hữu’ diện tích đó và người khác không được quyền sử dụng diện tích đất này, kể cả khi đang để hoang.
Việc chính thức công nhận hình thức quản lý rừng truyền thống sẽ tạo ra khung pháp lý cần thiết cho cộng đồng để họ có thể phát triển công tác quản lý rừng một cách hiệu quả dựa trên các mô hình quản lý truyền thống của họ. Việc giao quyền pháp lý với rừng sẽ giúp tăng cường các sáng kiến của người dân trong công tác bảo vệ rừng và nâng cao năng lực của họ trong việc ngăn chặn người ngoài vào lấn chiếm rừng. Đồng thời, nó cũng sẽ góp phần nâng cao năng lực của người dân trong việc đạt được các lợi ích vật chất và phi vật chất từ rừng. Trái lại, việc không công nhận về mặt pháp lý các hình thức quản lý rừng cộng đồng có thể đem lại các tác động bất lợi cho cả người dân và rừng.
LNCĐ có thể góp phần đáng kể vào xóa đói giảm nghèo. Mặc dù Việt Nam đã đạt được nhiều kết quả ấn tượng trong công tác xóa đói giảm nghèo nhưng các vùng xa xôi héo lảnh nhiều rừng vẫn còn nhiều người dân sống trong cảnh nghèo khó. Trong khi đó, rừng lại cung cấp tài nguyên cho người dân địa phương nhằm đáp ứng nhu cầu thiết yếu và tạo thu nhập. Ngoài ra, rừng cũng có thể là một nguồn thu nhập quan trọng cho người dân địa phương nếu các kế hoạch về PFES và REDD+ được thực hiện trên toàn quốc.
Phát triển LNCĐ có thể làm gia tăng lợi ích thu được từ rừng cho người dân địa phương, đặc biệt là cho người nghèo (Hộp 2). Người dân thôn bản có thể sử dụng một phần diện tích rừng cho mục đích sản xuất nông nghiệp nhằm đáp ứng nhu cầu thiết yếu và tạo thu nhập. Người dân thôn bản cũng có thể thu được lợi ích từ các nguồn thu được tạo ra từ hoạt động khai thác gỗ của cộng đồng, như đã được đưa ra trong nhiều dự án thí điểm với sự hỗ trợ của GIZ và Kfw. Ngoài ra, họ có thể tạo thu nhập từ các hợp đồng PFES và REDD+ cao hơn nhiều so với mức chi trả từ Chương trình 661.
Lâm nghiệp cộng đồng có thể góp phần vào những nỗ lực mà Chính phủ đang thực hiện nhằm tăng cường dân chủ cơ sở. Trong ngành Lâm nghiệp, nỗ lực chung trong việc tăng cường dân chủ cơ sở được phản ánh trong Thông tư 56 (1999) về xây dựng quy ước về bảo vệ và phát triển rừng. Gần đây nhất (2007), Chính phủ đã tăng cường thực thi dân chủ cơ sở qua việc đưa ra Pháp lệnh Dân chủ cơ sở ở cấp xã.
Phát triển lâm nghiệp cộng đồng sẽ góp phần đáng kể vào những nỗ lực hiện tại trong việc tăng cường dân chủ cơ sở. Rừng không chỉ là nguồn sinh kế quan trọng cho người dân địa phương mà còn là một phần quan trọng trong địa giới của thôn bản ở nhiều địa phương. Việc trao quyền sử dụng và quản lý rừng cho người dân sẽ tăng cường sự tham gia của người dân vào quá trình ra các quyết định có ảnh hưởng đến đời sống của họ. Theo quy định của Chính phủ về “dân biết, dân bàn, dân làm và dân kiểm tra”, người dân sẽ biết nhiều hơn, có thêm một diễn đàn để thảo luận các vấn đề quan trọng đối với họ, tham gia vào công tác quản lý rừng, và kiểm tra các hoạt động của các cơ quan Nhà nước trong ngành lâm nghiệp.
Mở rộng hỗ trợ cho lâm nghiệp cộng đồng sẽ phù hợp với những nỗ lực to lớn của Chính phủ Việt Nam trong việc công nhận sự tồn tại của các truyền thống văn hóa đặc trưng của từng vùng, miền. Nghị quyết số 5 do Ủy Ban trung ương Đảng thông qua năm 1998 và Luật Di sản văn hóa năm 2001 hỗ trợ nhiều trong việc thừa nhận truyền thống văn hóa, kêu gọi nỗ lực từ phía địa phương và người dân trong việc khôi phục các truyền thống văn hóa như lễ hội địa phương. Chính phủ cũng hỗ trợ việc đăng ký công nhận là di sản văn hóa phi vật thể theo Công ước về Bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể của UNESCO 2003. Ví dụ, năm 2005, UNESCO đã công nhận không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên là “Kiệt tác di sản văn hóa phi vật thể và truyền khẩu của nhân loại”.
Việc phát triển lâm nghiệp cộng đồng sẽ hỗ trợ những nỗ lực này nhằm công nhận các truyền thống văn hóa đặc trưng. Rừng là yếu tố quan trọng trong văn hóa địa phương ở nhiều vùng, miền, vì cộng đồng thôn bản đã xây dựng hương ước và tập quán quản lý rừng của họ. Rừng không chỉ là nguồn sinh kế quan trọng cho người dân mà việc sử dụng và quản lý rừng gắn chặt với giá trị của người dân, tầm nhìn của người dân về quang cảnh rừng đem lại và một tương lại đầy hứa hẹn. Rừng cũng mang ý nghĩa địa phương, vì người dân gắn giá trị văn hóa cho từng địa danh, từng loài cây, muông thú và thậm chí từng sự kiện xảy ra trong rừng. Ngoài ra, rừng là một đối tượng trong công tác quản trị thôn bản như đã được phản ánh qua vai trò của trưởng buôn ở Tây Nguyên và các vùng miền núi phía Bắc.
Việc phát triển lâm nghiệp cộng đồng sẽ giúp Chính phủ hoàn thành các cam kết quốc tế. Ví dụ, Chính Phủ đã ký Tuyên bố của Liên Hiêp quốc về Quyền của người dân bản địa (UNDRIP). Tuyên bố này nhằm đảm bảo các quyền tối thiểu của của người dân địa phương ở Việt Nam. Việt Nam cũng là thành viên của Công ước về Đa dạng sinh học (ĐDSH), trong đó có quy định người dân phải tham gia vào quản lý hệ sinh thái và được chia sẻ lợi ích một cách công bằng. Ngoài ra, thỏa thuận mới về biến đổi khí hậu dự kiến sẽ xây dựng chính sách an toàn xã hội để đảm bảo các quyền của người dân trong việc tham gia và hưởng lợi từ các hoạt động REDD+, như quyền được cho phép sự đồng thuận dựa trên nguyên tắc tự nguyện, báo trước và cung cấp đầy đủ thông tin (FPIC). Việc phát triển lâm nghiệp cộng đồng sẽ giúp Chính phủ thực hiện các cam kết quốc tế này.
Tóm lại, có nhiều lý do để phát triển lâm nghiệp cộng đồng như một biện pháp quan trọng trong quản lý rừng ở Việt Nam. Lâm nghiệp cộng đồng có khả năng đóng góp vào các mục tiêu chung của phát triển kinh tế xã hội Việt Nam như: quản lý rừng bền vững, xóa đói giảm nghèo, dân chủ địa phương, công nhận các truyền thống văn hóa và phù hợp với quy định pháp luật quốc tế. Ngoài ra, Chính phủ Việt Nam có thể hỗ trợ việc thực hiện lâm nghiệp cộng đồng vì trong thực tế đã có nhiều cộng đồng đã quản ý rừng.